Warning: include(/export/home2/WebData/baocongannghean//gia-dinh-xa-hoi/201407/toa-sang-dao-ly-uong-nuoc-nho-nguon-513914/index.txt): failed to open stream: No such file or directory in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72

Warning: include(): Failed opening '/export/home2/WebData/baocongannghean//gia-dinh-xa-hoi/201407/toa-sang-dao-ly-uong-nuoc-nho-nguon-513914/index.txt' for inclusion (include_path='.:/usr/local/php/lib/php') in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72
Tỏa sáng đạo lý 'uống nước nhớ nguồn' - Báo Công An Nghệ An điện tử
Chủ Nhật, 27/07/2014, 08:39 [GMT+7]

Tỏa sáng đạo lý 'uống nước nhớ nguồn'

(Congannghean.vn)-Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại do Đảng ta lãnh đạo nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, biết bao người con của nhân dân ta đã anh dũng hy sinh, cống hiến xương máu, sức lực, tài sản và trí tuệ cho đất nước.

Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc, hàng triệu người con ưu tú của Tổ quốc đã hy sinh hoặc cống hiến một phần thân thể của mình cho sự nghiệp cao cả của dân tộc, hàng trăm nghìn người vợ, người mẹ đã hiến dâng người chồng và nhiều người con cho Tổ quốc.

Trang nghiêm trước anh linh các Anh hùng liệt sỹ
Trang nghiêm trước anh linh các Anh hùng liệt sỹ

Điển hình như: Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở thôn Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có 9 con và 1 con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; mẹ Phạm Thị Ngư ở xã Hàm Hiệp, huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận, có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; mẹ Trần Thị Mít, xã Hải Phú, huyện Hải Lǎng, tỉnh Quảng Trị, có 9 con là liệt sĩ; mẹ Nguyễn Thị Rành ở ấp Trúc Đèn, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, có 8 con là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; mẹ Lê Thị Tự ở thôn Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có 9 con là liệt sĩ... Tổ quốc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đời đời ghi nhớ công lao to lớn ấy.

Để đền đáp một phần những cống hiến, hy sinh của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 20/SL đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Từ đó đến nay đã trở thành một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.

Cán bộ Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ Công an tỉnh dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ Việt Lào, huyện Anh Sơn - Ảnh: Trọng Đại
Cán bộ Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ Công an tỉnh dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ Việt Lào, huyện Anh Sơn - Ảnh: Trọng Đại

Đồng thời, để bày tỏ sự biết ơn với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng, ngày 27/7/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc, Cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin, tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh, liệt sĩ và thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch chọn một ngày làm “ngày thương binh”.

Sau khi cân nhắc về nhiều mặt, Hội nghị nhất trí đề nghị Trung ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày “Thương binh toàn quốc”. Chiều 27/7/1947, một cuộc mít tinh quan trọng tổ chức tại huyện Đại Từ (Bắc Thái) với 2.000 người tham gia. Ban tổ chức ngày “Thương binh toàn quốc” đã trịnh trọng đọc thư của Hồ Chủ tịch. Trong thư, Người cho biết đã ủng hộ một chiếc áo lụa của Hội Phụ nữ gửi biếu Người, một tháng lương và một bữa ăn trưa của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Từ năm 1947, ngày “Thương binh” đã được tổ chức trọng thể thường kỳ hàng năm. Sau 9 năm kháng chiến, ngày 31/12/1954, Bác Hồ đã đến làm lễ đặt vòng hoa ở Đài liệt sĩ Ba Đình, Hà Nội.

Trong diễn từ tại buổi lễ, Người viết: "Hỡi các liệt sĩ! Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Tôi thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ. …Một nén hương thanh. Vài lời an ủi".

Cảm động biết bao khi một vị Chủ tịch nước, hàng năm cứ đến Ngày Thương binh liệt sĩ lại gửi thư cùng một tháng lương của mình, kèm đó, khi thì một bữa ăn, khi thì một món quà (do đồng bào gửi biếu) để tặng anh em thương binh. Với quan điểm đầy tinh thần lạc quan “Tàn nhưng không phế", Bác khuyên anh em thương binh: "Khi đã khôi phục sức khoẻ phải hăng hái tham gia công tác sản xuất để trở thành người công dân kiểu mẫu. Bác chúc các gia đình liệt sĩ trở thành những "gia đình cách mạng gương mẫu”.

Từ năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh liệt sĩ” để thể hiện đầy đủ hơn tình cảm, đạo lý, nghĩa vụ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta và các thế hệ người Việt Nam đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

Trước lúc đi xa, trong bản “Di chúc”, Người không quên căn dặn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…) Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha, mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ đói rét”.

Thực hiện tư tưởng của Bác, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có công, khắc phục một số bất hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để lại, hình thành một hệ thống văn bản pháp quy có hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới.

Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật ưu đãi người có công, bắt đầu từ Chỉ thị số 223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định yêu cầu nhiệm vụ của công tác thương binh, liệt sĩ sau chiến tranh. Sau đó, Nhà nước ban hành nhiều nghị định, quyết định, thông tư nhằm sửa đổi, bổ sung chế độ ưu đãi đối với người có công; xác nhận chính xác đối tượng người có công để họ được hưởng chế độ trợ cấp theo quy định của Nhà nước.

Cùng với sự đổi mới của đất nước khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác ưu đãi người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục ghi nhận: "Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho những người và gia đình có công với cách mạng".

Hội nghị Trung ương 5 (khoá XI) tháng 5/2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Trong suốt quá trình đổi mới, ngay khi nền kinh tế còn nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã sớm thực hiện chủ trương phát triển đồng bộ kinh tế và xã hội, chú trọng kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững, ổn định chính trị xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta".

67 năm trôi qua, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu sáng kiến lấy ngày 27/7 hàng năm là “Ngày Thương binh liệt sĩ”. Từ đó đến nay, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta càng được thắp sáng trong tâm trí mỗi người Việt Nam yêu nước, trở thành phong trào của toàn xã hội nhằm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với gia đình liệt sĩ, thương binh và các đối tượng chính sách.

Các tầng lớp nhân dân trong cả nước, từ các cháu thiếu niên, nhi đồng đến người cao tuổi; từ các đơn vị, các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế; từ các cơ quan trường học, bệnh viện đến các đơn vị làm nhiệm vụ nơi biên giới, hải đảo xa xôi… đều có những việc làm nghĩa tình, thể hiện sự trân trọng và tôn vinh với những người đã hy sinh xương máu hoặc một phần cơ thể cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.

Để thiết thực chào mừng kỷ niệm 67 năm Ngày Thương binh liệt sĩ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền đã trình Chủ tịch nước dự kiến về mức quà tặng cho đối tượng có công với cách mạng. Tổng kinh phí để thực hiện là hơn 374 tỉ đồng.

Mức quà tặng theo phương án trình Chủ tịch nước được chia thành hai mức: 400.000 đồng và 200.000 đồng. Theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, mức quà 400.000 đồng để tặng quà các đối tượng sau: Bà mẹ Việt Nam anh hùng; thân nhân liệt sĩ, thân nhân hai liệt sĩ trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng; thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh bị suy giảm khả năng lao động do thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên (bao gồm cả những thương binh loại B được công nhận từ trước ngày 31/12/1993); người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Mức quà 200.000 đồng để tặng thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh bị suy giảm khả năng lao động do thương tật, bệnh tật từ 80% trở xuống (bao gồm cả những thương binh loại B được công nhận từ trước ngày 31/12/1993); thương binh đang hưởng chế độ mất sức lao động; đại diện thân nhân chủ yếu của liệt sĩ; đại diện gia đình thờ cúng liệt sĩ; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, suy giảm khả năng lao động từ 80% trở xuống.

Giữa những ngày tháng Bảy tri ân, Tổ quốc ta, nhân dân ta đời đời nhớ ơn và ghi sâu công lao to lớn của các liệt sĩ, thương binh, những người có công với nước trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

.

Nguyễn Văn Thanh