Warning: include(/export/home2/WebData/baocongannghean//gia-dinh-xa-hoi/201411/can-xem-xet-ky-cang-de-dam-bao-quyen-loi-chinh-dang-cua-cong-dan-vu-tranh-chap-dat-dai-hy-huu-tai-xa-hoa-son-do-luong-561126/index.txt): failed to open stream: No such file or directory in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72

Warning: include(): Failed opening '/export/home2/WebData/baocongannghean//gia-dinh-xa-hoi/201411/can-xem-xet-ky-cang-de-dam-bao-quyen-loi-chinh-dang-cua-cong-dan-vu-tranh-chap-dat-dai-hy-huu-tai-xa-hoa-son-do-luong-561126/index.txt' for inclusion (include_path='.:/usr/local/php/lib/php') in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72
Vụ tranh chấp đất đai hy hữu tại xã Hòa Sơn (Đô Lương) - Báo Công An Nghệ An điện tử
Thứ Năm, 20/11/2014, 14:46 [GMT+7]
Cần xem xét kỹ càng để đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân

Vụ tranh chấp đất đai hy hữu tại xã Hòa Sơn (Đô Lương)

(Congannghean.vn)-Theo Quyết định số 03/QĐ-CCTHA ngày 14/10/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Đô Lương, đến đầu tháng 11/2014, gia đình ông Nguyễn Đình Hiệu phải tháo dỡ ngôi nhà đã gắn bó với mình trên 20 năm để thi hành Bản án số 39/2014/DSPT ngày 22/7/2014 của TAND tỉnh Nghệ An.
 
Điều đáng nói, chính quyền xã và hầu hết người dân địa phương đã cung cấp nhiều hồ sơ, nhân chứng chứng minh thửa đất số 66, bản đồ số 3 tại xóm Hiệp Hòa thuộc quyền sở hữu của ông Hiệu nhưng tòa lại tuyên án, một phần thửa đất trên thuộc về người chưa có lấy một ngày sinh sống và sử dụng thửa đất ấy. 
Thực trạng thửa đất đang tranh chấp
Thực trạng thửa đất đang tranh chấp
Một thửa đất, hai sổ đỏ?
 
Năm 1990, UBND xã Hòa Sơn cấp cho ông Nguyễn Đình Hiệu một thửa đất hoang hóa tại xóm Hiệp Hòa để làm đất ở. Biên bản giao đất ghi rõ: Phía Bắc giáp đường 15B; Nam giáp mương HTX; Đông giáp đường 15B; Tây giáp kênh tiêu HTX. Ông Hiệu đã thực hiện nghĩa vụ tài chính và nộp cho UBND xã Hòa Sơn 200 kg thóc.
 
Cuối năm 1990, ông Hiệu làm nhà, xây dựng công trình phụ và đến năm 1995 được UBND huyện Đô Lương cấp GCNQSDĐ, diện tích 400 m2, thửa 66, tờ bản đồ số 3. Năm 2002, thửa 66 được đo đạc, quy thành thửa 180, tờ bản đồ số 11, diện tích 979 m2, sơ đồ kỹ thuật, sổ mục kê, sổ quy chủ đều mang tên Nguyễn Đình Hiệu. 
 
Đang yên đang lành thì năm 2001, ông Bùi Văn Tư kiến nghị lên UBND xã Hòa Sơn đòi lại một phần thửa đất ông Hiệu đang sử dụng. Ông Tư cho rằng, lợi dụng việc thuê đất sản xuất, ông Hiệu đã xây dựng công trình kiên cố trên phần đất đã được UBND huyện Đô Lương cấp cho gia đình ông. Đến năm 2006, ông Tư lại tiếp tục kiến nghị đòi đất nhưng cả 2 lần ông Tư đều không xuất trình được chứng cứ, UBND xã Hòa Sơn không có căn cứ giải quyết.
 
Năm 2011, UBND xã Hòa Sơn tiếp tục nhận được kiến nghị của ông Tư. Điều khiến UBND xã Hòa Sơn hết sức bất ngờ là lần này ông Tư đã cung cấp bản phôtô GCNQSDĐ, diện tích 520 m2, thửa 66, tờ bản đồ số 3. Điều này có nghĩa là, thửa đất số 66, tờ bản đồ số 3 có tới hai GCNQSDĐ, một mang tên ông Bùi Văn Tư và một thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Đình Hiệu. Những người nguyên là cán bộ xã thời kỳ đó đều khẳng định, thửa đất trên chỉ được giao cho hộ gia đình ông Hiệu sử dụng, vì sao ông Tư lại có GCNQSDĐ thì không ai lý giải được.
 
Tháng 4/2012, ông Tư khởi kiện vụ án tranh chấp dân sự lên TAND huyện Đô Lương. Tại phiên xét xử sơ thẩm ngày 30/9/2013, TAND huyện Đô Lương đã tuyên buộc ông Hiệu phải cắt 510,3 m2 đất, dỡ nhà ngang, chuồng trâu và công trình phụ, trả lại đất cho ông Tư.  Bản án sơ thẩm đã bị VKSND tỉnh Nghệ An kháng nghị. Ông Hiệu cũng làm đơn kháng án kêu oan TAND tối cao.
 
Tòa xử, viện kháng nghị
 
Ông Nguyễn Cảnh Hạnh, cán bộ địa chính thời kỳ 1991 - 1998; ông Thái Doãn San, Chủ tịch UBND xã nhiệm kỳ 1988 - 1993; ông Thái Đình Xuân, Chủ tịch UBND xã nhiệm kỳ 1994 - 1998 xã Hòa Sơn đều khẳng định: Thửa đất 66, tờ bản đồ số 3 chỉ được giao cho ông Hiệu quản lý, sử dụng. 
 
Theo những nhân chứng này, việc cấp GCNQSDĐ ở tại xã Hòa Sơn khó xảy ra việc trùng thửa và cũng không có chuyện thửa 66 được tách thành thửa 66A, 66B. Còn nguyên nhân vì sao sổ mục kê bản đồ giao đất lưu tại UBND xã lại xuất hiện thửa 66A, 66B và bị tẩy xóa thì không ai giải thích được.
 
Ông Tư cho rằng, đây là đất do ông Bùi Văn Hoàn (bố ông Tư) chuyển nhượng cho mình. Tuy nhiên, cán bộ xã Hòa Sơn khẳng định, ông Hoàn không phải là chủ nhân của thửa đất trên thì làm sao chuyển nhượng được cho ông Tư? Thửa số 66 đã được UBND xã Hòa Sơn quy chủ cho ông Hiệu, gia đình ông xây dựng công trình kiên cố ngay sau khi được giao đất. Nếu là đất của ông Tư thì tại sao phải đợi đến 11 năm sau khi ông Hiệu xây dựng nhà kiên cố ông Tư mới đòi đất?
 
Sau khi lập gia đình, ông Tư đã được ông Hoàn cho sử dụng thửa đất số 164 bên cạnh, được quy chủ, diện tích 681m2. Theo cán bộ đương nhiệm xã Hòa Sơn, hàng năm ông Tư nộp thuế cho thửa đất này là 10,2 kg thóc. Tuy nhiên, TAND huyện Đô Lương lại cho rằng, đây là thuế đất hàng năm ông Tư nộp cho thửa đất đang tranh chấp (?). 
 
Do sơ đồ 299 tại xã Hòa Sơn bị mất, ông Hiệu đã tìm đến Trung tâm Công nghệ thông tin, Sở Tài nguyên và Môi trường Nghệ An để tìm về bản gốc. Theo đó, thửa đất 180 (sơ đồ 02) thực tế là thửa 66 (sơ đồ 299) có diện tích 960 m2. Tuy nhiên, không hiểu vì sao, sổ mục kê tại UBND xã Hòa Sơn, thửa 66 được sửa thành 66A, 66B, diện tích bị tẩy xóa, sửa chữa. Như vậy, việc TAND huyện Đô Lương căn cứ sổ mục kê để xem xét vấn đề theo dư luận chưa đủ sức thuyết phục.
 
Ngày 30/10/2013, Viện KSND tỉnh Nghệ An đã ra Quyết định kháng nghị đối với bản án sơ thẩm của TAND huyện Đô Lương và xác định, TAND huyện Đô Lương đã vi phạm thủ tục tố tụng, xác định tư cách của người tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chính xác; bản án sơ thẩm không thể hiện ý kiến của đại diện VKS... Công văn số 94/CAH ngày 27/12/2013, Công an huyện Đô Lương cũng nhận định: “Việc ông (Hiệu - P.V) tố cáo ông Bùi Văn Tư làm giả giấy CNQSDĐ là có căn cứ”.
 
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình ông Hiệu lại một lần nữa thất vọng bởi TAND tỉnh Nghệ An gần như giữ y nguyên bản án sơ thẩm. Bản án này đã không nhận được sự nhất trí từ phía gia đình ông Hiệu. Nghi ngờ những điều khuất tất, ông Hiệu tiếp tục có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 5/11/2014, TAND tối cao đã có Công văn số 23/TANDTC-DS về việc hoãn THADS. Theo đó, TAND tối cao đã yêu cầu Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Đô Lương ra quyết định hoãn THA Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2014/DSPT ngày 22/7/2014 của TAND tỉnh Nghệ An để có thời gian xem xét đơn đề nghị của đương sự. Ngày 12/11/2014, Chi cục THADS huyện Đô Lương đã ra các Quyết định số 01/QĐ-THA và 02/QĐ-THA hoãn THA 90 ngày kể từ ngày ra Quyết định.

 

.

Võ Văn Dũng