Warning: include(/export/home2/WebData/baocongannghean//van-hoa-giao-duc/201408/roi-le-khi-doc-tho-ve-noi-dau-da-cam-521859/index.txt): failed to open stream: No such file or directory in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72

Warning: include(): Failed opening '/export/home2/WebData/baocongannghean//van-hoa-giao-duc/201408/roi-le-khi-doc-tho-ve-noi-dau-da-cam-521859/index.txt' for inclusion (include_path='.:/usr/local/php/lib/php') in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72
Rơi lệ khi đọc thơ về nỗi đau da cam - Báo Công An Nghệ An điện tử
Chủ Nhật, 17/08/2014, 08:30 [GMT+7]

Rơi lệ khi đọc thơ về nỗi đau da cam

(Congannghean.vn)-6 lần vượt cạn chỉ còn 4 đứa con dị tật, ốm yếu nhưng bằng nghị lực của bản thân cùng sự động viên của người chồng, bà đã vượt qua tất cả để viết tiếp những năm tháng bi thương của đời mình qua những vần thơ đầy cảm xúc.

Về thôn 12, xã Tường Sơn, huyện Anh Sơn tìm hỏi cảnh ngộ éo le của vợ chồng bà Phan Thị Liên (SN 1948) nuôi hai đứa con bị nhiễm chất độc da cam thì ai cũng biết. Trời đã nhá nhem tối nhưng người mẹ vốn chịu nhiều nỗi đau ấy vẫn phải ra đầu ngõ để gọi hai đứa con đã lớn nhưng còn mảng chơi về nhà.

Vẹn nguyên một mối tình

17 tuổi, cô gái trẻ Phan Thị Liên quyết định xếp bút nghiên để tham gia lao động sản xuất phụ giúp gia đình. Khi giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, TW Đảng quyết định xây dựng sân bay dã chiến Dừa nhằm bảo vệ vùng trời và ngăn chặn máy bay địch. Ngày ấy, Liên cùng bà con trong làng hăng hái tham gia đào hào, công sự, bố trí trận địa để bảo vệ sân bay. Mỗi lần máy bay Mỹ ném bom, Liên lại tích cực tham gia vận chuyển lương thực, thuốc men cho lính phòng không, chăm sóc những người bị thương do bom đạn.

Là con gái út ở xứ Dừa Anh Sơn, lúc hai chị gái lấy chồng xa, bố mẹ già yếu nên đã ngỏ ý ai yêu và muốn lấy Liên làm vợ thì phải ở rể. Từ khi học cấp 2, mối tình của Liên và người con trai Bùi Công Mỹ ở cùng làng đã bắt đầu chớm nở. Năm 1964, cũng như bao chàng trai khác, Mỹ hăm hở lên đường nhập ngũ và làm nhiệm vụ thông tin liên lạc ở đường dây 559 thuộc binh trạm Bắc Tây Nguyên. Một năm sau, gia đình 2 bên đã tự đi lại, làm lễ đính hôn mà vắng mặt chú rể.

Từ ngày người yêu vào chiến trường, Phan Thị Liên ở lại hậu phương tất bật với ruộng đồng và tham gia trực chiến. Giữa cảnh đạn bom ác liệt, họ vẫn giữ liên lạc với nhau qua thư, trong đó có những lá thư phải chờ đến hàng năm mới nhận được. Hàng đêm, sau giờ trực, Liên thường dành thời gian viết thư cho người yêu và ghi nhật ký để gửi gắm tâm tư, nỗi niềm. Suốt chục năm trời xa cách, đợi chờ, bà Liên chỉ biết ghi lại những dòng thương nhớ người yêu, người chồng chưa cưới qua 105 bức thư và 2 cuốn nhật ký bằng thơ và văn xuôi. Tuy nhiên, trận lũ lịch sử năm 1978 đã cuốn đi tất cả.

123
Vợ chồng bà Liên cùng một trong hai đứa con bị da cam

Viết và gửi đi nhiều nhưng nhận được chẳng bao nhiêu vì thư bà gửi đi chưa kịp đến tay người chồng chưa cưới thì bom đạn đã làm thất lạc. Từ ngày ông Mỹ vào chiến trường đến lúc hai người sum vầy, bà Liên chỉ nhận được 2 bức thư hồi đáp. Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để bà tin tưởng tuyệt đối và một mực chờ đợi chồng mình. Trong đó, bà vẫn còn thuộc và khắc sâu vào tâm trí, máu thịt bài thơ mà chồng đã nhắn nhủ: “Em sẽ đợi anh về/ Ngày thống nhất non sông/ Em sẽ đợi anh về/ Ngày chung sống bên em/ Em sẽ đợi anh về/ Vui chung cùng bố mẹ”. Hai người dù xa cách đằng đẵng nhưng vẫn vẹn nguyên, chung thủy: “Ngước nhìn lên đỉnh Kim Nhan/ Tình ta cao vút xin nàng chớ quên”.

Đầu năm 1973, vì sức khỏe yếu nên ông Bùi Công Mỹ được ra quân sau chục năm trời phục vụ Tổ quốc.  Khi ấy, giặc Mỹ ngừng ném bom bắn phá miền Bắc, Phan Thị Liên cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ngày 6/1/1973, đám cưới của hai người được tổ chức như lời ước hẹn trong niềm hân hoan, chúc tụng của gia đình, bà con lối xóm.

Biến nỗi đau thành những “vần thơ da cam”

Lấy nhau về, hạnh phúc của vợ chồng ông bà được nhân lên khi tình yêu của hai người đơm hoa, kết trái. Bà Liên sớm mang thai và năm 1974 đã sinh hạ con gái đầu lòng. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang khi nỗi buồn bất ngờ ập đến bởi đứa con sinh ra bị dị dạng rồi bỏ bố mẹ mà đi khi chưa đầy 3 tuổi. Quá đau đớn vì mất con, bà Liên đành gửi nỗi niềm qua những câu thơ mà nhiều người đọc phải rơi lệ:

“Gần 3 năm sao con chả nói
Mẹ gọi con, con chẳng thèm nhìn
Mẹ đau lòng và khóc thâu đêm
Sao con mình như vậy?”

Đau đớn, tủi hờn nhưng vợ chồng ông bà thường động viên nhau phải sống và hy vọng. 3 năm sau ngày đứa con đầu lòng ra đi, bà Liên sinh được đứa con gái thứ 2 đặt tên là Bùi Thị Hường. Thấp thỏm, lo âu, chờ đợi may sao con gái của bà lành lặn và khỏe mạnh. Tới năm 1979, con trai Bùi Công Sơn chào đời và rồi 3 năm tiếp nữa, bà Liên lại sinh hạ được cô con gái tên Bùi Thị Thủy. Cả Sơn và Thủy sinh ra bình thường như bao đứa trẻ khác nhưng khi lên 3 tuổi, cả hai càng ngày sức khỏe càng yếu, miệng méo xệch. Sơn chuyên đau bụng, đi chữa trị nhiều nơi mà không khỏi.

Mãi sau này, bà Liên mới biết chồng mình bị nhiễm chất độc da cam. Lúc ấy, vợ chồng bà càng thêm sầu đau, tủi hờn. Từ khi hai đứa con mình mang nặng đẻ đau cơ thể không bình thường, bao đêm liền bà chỉ biết khóc thầm. Năm Sơn được 9 tuổi, thấy con trai không đi được nên bà Liên lo bắt cóc, lươn và cua đồng cho con ăn với hy vọng con sẽ tốt hơn. Và công sức của người mẹ tảo tần phần nào đã được đền đáp khi mấy năm sau, Sơn đã tự đi được trên đôi chân của mình.

Với hy vọng có thêm những đứa con lành lặn để có thể làm chỗ dựa lúc về già, sau đó vợ chồng bà Liên đã lần lượt sinh thêm được một cô con gái tên Lợi và cậu con trai út tên Lực. Cả Lợi và Lực sinh ra đều lành lặn, bình thường âu cũng là niềm an ủi cho những đắng cay, tủi hờn mà vợ chồng bà Liên phải gánh chịu.

Dù vậy, so với bạn bè cùng trang lứa, cả 3 người con lành lặn của bà Liên vẫn yếu hơn về thể lực nên phải nuôi nấng rất vất vả. Và rồi niềm hy vọng lớn nhất của ông bà là người con trai út Bùi Công Lực để dựa dẫm sau này đã sớm trở thành vô vọng khi tròn 3 tuổi, Lực cũng theo người chị đã khuất ra đi chỉ sau một cơn đau bụng. Đau đớn đến tột cùng, vợ chồng bà Liên đều ngất xỉu ngay bên giường bệnh của con.

Hiện giờ, tuy hai cô con gái tên Hường và Lợi đã có gia đình, đều có một đứa con nhưng sức khỏe rất yếu, lại hay phải đi viện nên cả hai chỉ có thể làm được những việc vặt trong nhà. Trong khi đó, người con trai tên Sơn tuy đã lớn nhưng chẳng có khôn, biết đi nhưng lại không biết gì.

Thấy khách đến, bà phải gọi con về dỗ ngon, dỗ ngọt cho kẹo như đứa trẻ lên ba.Đã 34 tuổi nhưng sáng dậy Sơn không biết rửa mặt, tối chẳng biết rửa chân. Dù nắng cháy hay mưa gió, Sơn vẫn cứ lang thang ngoài đường. Thủy tuy khá hơn anh trai mình nhưng tính tình cũng dở dở, ương ương, nhiều lúc lên cơn thường đập phá đồ đạc trong nhà rồi cười khanh khách.

Đã hơn 20 năm trôi qua, nhưng nỗi đau trong bà Liên vẫn còn dai dẳng mãi. Không biết chia sẻ nỗi lòng cùng ai, bà chỉ biết viết những dòng tâm sự bằng thơ qua từng trang giấy trắng. Trong số đó, bài thơ “Lên án chất độc da cam” là đứa con tinh thần được ra đời với tất cả sự trải nghiệm đau đớn, bất hạnh của bản thân và gia đình:

“Thương những ai nằm trong trận tuyến
Đã ngấm rồi chất độc da cam
Cơ thể đớn đau, thân xác bàng hoàng
Sinh con cái trăm đường cực khổ
Đàn con tôi - đó là chứng cớ
Về nỗi đau muôn thuở không phai”.

Hiện giờ, bà Liên chỉ mong muốn được Nhà nước cấp cho chế độ người chăm sóc thân nhân bị chất độc da cam. Xa hơn, vợ chồng bà chỉ có một tâm nguyện là khi cả hai tạ thế, Nhà nước có thể đưa Sơn và Thủy vào trại điều dưỡng dành cho người tàn tật, nhiễm chất độc da cam. Có như thế, bà mới cảm thấy yên lòng…

.

Duy Ngợi

.